Như đã đưa tin, ông Nguyễn Hữu Toàn (anh trai bà Nguyễn Phương Hằng) vừa có đơn gửi cơ quan chức năng xin bảo lãnh cho bị can này tại ngoại.
Theo đơn, ông Toàn cho rằng hành vi của bà Nguyễn Phương Hằng thể hiện qua các buổi livestream phát tán trên mạng xã hội đã được cơ quan điều tra khám xét, không cần thiết phải tạm giam để điều tra, thu thập chứng cứ.
Tội danh của bà Hằng cũng không phải là loại tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thuộc trường hợp phải tạm giam để điều tra, truy tố, xét xử.
Sau thời gian bị tạm giam đến nay, bà Hằng đã nhận thức được sai phạm, nhận lỗi và cam kết không tiếp tục tái diễn hành vi livestream cũng như làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự môi trường mạng.
Theo ông Toàn, nguyên nhân dẫn đến sự việc bà Hằng livestream là do nhiều người công kích bà, công ty, quỹ từ thiện, con cái… nên bà Hằng đã nóng giận mất kiểm soát, xảy ra vi phạm.
Về nhân thân, bà Hằng có địa chỉ cư trú rõ ràng, chưa có tiền án, tiền sự, bản thân lại đang bị nhiều bệnh như cao huyết áp, rối loạn lo âu, rối loại lipid máu, mất ngủ kéo dài… phải điều trị thường xuyên nhiều năm nay. Việc tạm giam ảnh hưởng rất nhiều đến tình trạng sức khỏe của bà Hằng.
Trong đơn, ông Toàn cho rằng bà Nguyễn Phương Hằng không bị tâm thần, loạn thần. Đồng thời, ông này khẳng định bản thân mình là người đã trưởng thành, có nhân thân tốt, có địa chỉ cư trú rõ ràng tại TPHCM, đủ điều kiện để bảo lãnh cho em ông được tại ngoại.
Từ đó, ông mong cơ quan pháp luật xem xét cho ông bảo lĩnh bà Phương Hằng tại ngoại. Nếu được sự đồng ý của Công an TPHCM và VKSND cùng cấp, gia đình xin được đặt tiền để bảo lãnh như là một cam kết kèm theo.
Độc giả Dân trí thắc mắc, theo quy định của pháp luật khi nào được dùng tiền để bảo lãnh tại ngoại? Trường hợp của bà Hằng thì gia đình phải đặt bao nhiêu tiền? Số tiền đó được trả lại không?
Cần đặt bao nhiêu tiền để được tại ngoại?
Luật sư Quách Thành Lực, Công ty luật Pháp trị - Đoàn Luật sư TP Hà Nội cho biết, pháp luật Việt Nam cho phép người là bị can, bị cáo trả một số tiền để được tại ngoại. Nói một cách khác thì "đặt tiền để đảm bảo" là một biện pháp ngăn chặn thay thế cho tạm giam được cụ thể hóa tại Điều 122 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
Theo đó, căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhân thân và tình trạng tài sản của bị can, bị cáo, cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án có thể quyết định cho họ hoặc người thân thích của họ đặt tiền để bảo đảm.
Bị can, bị cáo được đặt tiền phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ:
a) Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan;
b) Không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội;
c) Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
Trường hợp bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan quy định tại khoản này thì bị tạm giam và số tiền đã đặt bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.
Tại Điều 122, Bộ luật tố tụng hình sự 2015 cũng nêu rõ, những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này, thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền ra quyết định về việc đặt tiền để bảo đảm. Quyết định của những người quy định tại điểm a khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này phải được viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
Thời hạn đặt tiền không quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định tại bộ luật này. Thời hạn đặt tiền đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù. Bị can, bị cáo chấp hành đầy đủ các nghĩa vụ đã cam đoan thì viện kiểm sát, tòa án có trách nhiệm trả lại cho họ số tiền đã đặt.
Người thân thích của bị can, bị cáo được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án chấp nhận cho đặt tiền để bảo đảm phải làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo vi phạm các nghĩa vụ quy định tại khoản 2 Điều này. Nếu vi phạm thì số tiền đã đặt bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước. Khi làm giấy cam đoan, người này được thông báo về những tình tiết của vụ án có liên quan đến bị can, bị cáo.
Đối chiếu quy định trên, theo luật sư, ông Nguyễn Hữu Toàn hoàn toàn có thể đặt tiền để bảo đảm thay thế biện pháp tạm giam đối với em gái mình. Theo đó, cơ quan tố tụng sẽ căn cứ vào tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bà Nguyễn Phương Hằng, cùng những điều kiện cụ thể về thay đổi biện pháp ngăn chặn mà pháp luật tố tụng hình sự quy định, sẽ chấp thuận hoặc không chấp thuận việc đặt tiền bảo đảm của anh trai bà Nguyễn Phương Hằng.
Cũng theo luật sư, nếu được chấp thuận, việc đặt bao nhiêu tiền để được tại ngoại sẽ phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của tội phạm, được quy định trong thông tư liên tịch 06/2018/TTLT-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC như sau:
Cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án quyết định mức tiền cụ thể mà bị can, bị cáo phải đặt để bảo đảm, nhưng không dưới:
a) Ba mươi triệu đồng đối với tội phạm ít nghiêm trọng;
b) Một trăm triệu đồng đối với tội phạm nghiêm trọng;
c) Hai trăm triệu đồng đối với tội phạm rất nghiêm trọng;
d) Ba trăm triệu đồng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.